Đặc điểm thực vật và phân bố Cây thảo, sống nhiều năm, cao 2 - 3m. Thân rễ mọc ngang, có nhiều đốt. Lá to, dài, mọc so le có bẹ ôm kín thân. Hoa to, màu đỏ nhạt, mọc thành bông ở gốc. Quả hình trứng, cuống ngắn, màu đỏ sẫm, mọc dày đặc. Mỗi chùm quả có từ 40 - 50 quả. Hạt nhiều, có cạnh, có mùi thơm đặc biệt. trồng và mọc hoang ở vùng rừng núi cao, có khí hậu mát, độ ẩm cao ở các tỉnh Lào Cai, Hà Giang. Trồng trọt và thu hái Trồng bằng hạt hay bằng các đoạn cắt từ thân rễ. Mỗi đoạn cắt của thân rễ phải có 1 chồi non và 1 chồi già. Trồng cách nhau 1,5m x 1,5m, vào mùa mưa, và tốt nhất là trồng dưới tán cây khác. Trồng bằng hạt, gieo hạt trong vườn ươm, sau đó trồng cây con đại trà. Sau 5 năm có thể thu hoạch (chậm hơn so với phương pháp trồng bằng thân rễ). Cây có thể sống được 25 năm hoặc lâu hơn nữa. Thu hái vào tháng 10 - 11 và kéo dài đến tháng 2 (từ tháng 10 đến tháng giêng âm lịch). Hái quả xong phải phơi hoặc sấy khô ngay. Nếu chăm sóc tốt 1 ha có thể cho 100 - 400 kg quả khô. Bộ phận dùng Quả chín đã phơi khô hoặc sấy khô. Quả có hình thuôn hoặc hơi tròn, dài 2 - 4 cm, đường kính 1,3 - 2,3 cm. Mặt ngoài màu nâu đỏ hoặc màu xám, có vân dọc sần sùi. Quả có 3 ngăn, mỗi ngăn chứa 7 - 19 hạt. Hạt khô rắn, hình đa giác không đều, ép sát nhau. Hạt có mùi thơm, vị cay tê. Thành phần hoá học Quả có chứa tinh dầu 1,40 - 1,47%. Thành phần hoá học chính của tinh dầu thảo quả là cineol (31- 37%), các hợp chất aldehyd: 2 - decenal (6 - 17%0, geranial (7 - 11%), neral (3 - 7%), ngoài ra còn chứa geraniol, citronelol, 7-methyl-6-octen-2-yl-propionat. Công dụng Thảo quả chủ yếu dùng làm gia vị trong kỹ nghệ chế biến bánh kẹo và thực phẩm. Dùng làm thuốc chữa đau bụng, nôn mửa, giúp cho sự tiêu hoá, chữa hôi miệng. Tinh dầu khi cất ra không có mùi đặc trưng của thảo quả nên ít có ý nghĩa sử dụng.
|